Thứ Hai, 31 tháng 5, 2010

Đức Đại Thế Chí Bồ Tát


Chánh Hạnh
Ðức Ðại Thế Chí là một vị Bồ Tát quen thuộc với Phật Tử Bắc Tông cũng như Ðức Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi hay Phổ Hiền, được các chùa Việt Nam thờ chung với Ðức Phật A Di Ðà và đứng về phía tay phải còn bên tay trái là đức Quán Thế Âm, gọi là Di Ðà tam thánh, ngài tượng trưng cho trí tuệ, đức Quán Thế Ân tượng trưng cho Từ Bi. Từ bi và Trí tuệ là hai đức tánh cao cả hợp nhất để thành chánh giác tức Phật A Di Ðà.
Ðức Ðại Thế Chí Bồ Tát còn được gọi là Ðắc Ðại Thế Chí vì Ngài là bực Bồ Tát thế lực oai thần cao siêu cùng cực, theo tiếng Phạn tên Ngài là Mâhasthâmaprâpta (Ma ha na bát).
Theo kinh Bi Hoa, một đời trước ngài là thái tử Ni Ma, con vua Vô Tránh Niệm, vua gặp được Phật Bảo Tạng, phát tâm tu hành và ngộ đặng chơn lý. Thái tử cũng phát tâm tu hành, phụng sự Phật Bảo Tạng với chúng Tăng của Phật trong ba tháng và phát nguyện cầu thành Phật đạo. Ðức Phật Bảo Tạng thọ ký cho ngài, bảo rằng ngài sẽ là Ðại Thế Chí Bồ Tát ở cõi Cực Lạc của Phật A Di Ðà.
Ðức Ðại Thế Chí oai thần rộng lớn, dùng trí tuệ sáng suốt soi khắp mười phương, khiến cho mọi loài chúng sanh đều nhớ ân đức của ngài mà thoát khổ trong ba đường dữ. Khi ngài du hành thì cõi đại thiên thế giới đều rúng động, làm cho cung điện Ma vương nghiêng ngã. Vì oai thần của ngài như vậy nên gọi là Ðại Thế Chí. Trong các pháp hội của đức Thế Tôn, ngài thường có hiện thân để trợ dương Phật, giáo hóa chúng sanh.
Trong hội Lăng Nghiêm những vị Bồ Tát khác và thánh chúng đã trình Phật pháp tu chứng của mỗi vị, đức Ðại Thế Chí đã trình với Phật về trường hợp tu chứng của ngài cùng với 52 vị Bồ Tát khác đồng tu một pháp môn như sau: ‘’ Tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô Lượng Quang; lúc ấy mười hai đức Như Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp; đức Phật sau hết, hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, dạy cho tôi phép Niệm Phật Tam Muội. Ví như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng không là thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang đời khác, không bào giờ cách xa nhau. Thập phương Như Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất định thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương tiện, tâm tư được khai ngộ như người ướp hương thì thân thể có mùi thơm, ấy gọi là hương quang trang nghiêm. Bản nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp vô sanh nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh Ðộ. Phật hỏi về viên thông, tôi thu nhiếp tất cả sáu căn, không có lựa chọn, tịnh niệm kế tiếp, được vào Tam Ma Ðề đó là thứ nhất.
Oai lực của ngài như thế, pháp tu chứng đắc của ngài như vậy, nên ngài được dự vào hàng Di Ðà tam thánh, Phật tử chúng ta muốn cầu vãng sanh, phải lấy ngài làm gương để niệm Phật, như xông, như ướp tạo một môi trường cùng tạp quán để được vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Ngày 7 tháng 5 năm 2002

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét