Thứ Hai, 31 tháng 5, 2010

Về một quyển sách


Chánh Hạnh
Thoạt tiên tôi chọn tên đặt cho bài này là "Cái gì của Cesar hãy trả lại cho Cesar", nhưng nghĩ lại mặc dù nhiều người dùng thành ngữ này, nó trở nên thông dụng cũng có thể làm cho độc giả hiểu lầm vì đây là lời của chúa Jesus đã nói, ghi trong Thánh kinh. Tôi lại chọn tựa là "Một ngụy thư của Nhà Xuất Bản Tôn Giáo", nhưng lại sợ bị hiểu lầm với từ Ngụy quân, Ngụy quyền của Cộng sản đã dùng, nên cuối cùng tôi ưng đặt tên cho bài này là "Về một quyển sách". Đó là quyển "Thế Giới Quan Phật Giáo" của Hòa Thượng Thích Mật Thể do Nhà Xuất Bản Tôn Giáo ấn hành năm 2004. Nhà Xuất Bản Tôn Giáo thuộc Ban Tôn Giáo Chính Phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Nguyệt san Phật Học từ số 131, tháng Sáu năm 2005, đã đăng lại quyển Thế Giới Quan Phật Giáo của Hòa Thượng Thích Mật Thể, Vạn Hạnh Xuất Bản do Hoà Thượng Thích Đức Nhuận chủ trương, ấn hành năm 1967 tại Sàigòn. Đây là quyển sách tôi mua được trong một cửa hàng bán sách cũ vào năm 1998, trên đường Nguyễn Thị Minh Khai tức là đường Hồng Thập Tự cũ, gần đường Nguyễn Thiện Thuật Quận Ba, Sàigòn. Sách có thủ bút của Hòa Thượng Thích Đức Nhuận "Kính biếu Cụ Tham Thọ (ký tên: Nhuan) 1969". Mãi đến sau nầy khi Nguyệt San Phật Học đã đăng vài số, tôi mới khám phá ra là quyển sách này đã bị ai đó dùng kéo cắt mất 4 trang: 3, 4, 5, 6 trong đó có bài TỰA khởi đầu ở trang 3. Theo chỗ suy đoán của chúng tôi, chắc bài TỰA có phê phán về chủ nghĩa xã hội, điều này không có lợi cho người bán sách cũ, do vậy họ đã cắt bỏ phần này. Chúng tôi chưa có dịp để tìm lại nguyên bản bài TỰA, chắc chắn là do Hòa Thượng Thích Đức Nhuận viết.
Quyển sách này có một giai thoại như sau: Vào khoảng năm 1997, Thượng Tọa Thích Giác Toàn, Phó Tổng Biên Tập Tuần Báo Giác Ngộ, đến chùa Giác Minh tìm gặp Hòa Thượng Thích Đức Nhuận để xin cho tái bản quyển Thế Giới Quan Phật Giáo, Hòa thượng Đức Nhuận nói với Thượng Tọa Giác Toàn:
- Quyển Thế Giới Quan Phật Giáo, tôi in năm 1967, ngày nay không biết còn có thích hợp với chế độ này hay không, Thượng Tọa có muốn tái bản thì xem lại cho cẩn thận.
Sau khi xin được giấy phép, Thượng Tọa Giác Toàn cho in và phát hành. Khi đã phát hành rồi liền được Ban Tôn Giáo yêu cầu đình chỉ, những sách đã phát hành phải thu và nộp lại cho đủ với số sách đã in.
Vì sao sách đã cho phép in, phát hành rồi lại tịch thu? Đương nhiên nội dung chứa những điều không tốt cho chế độ, nếu vậy tại sao Thượng Tọa Giác Toàn dám xin phép in và tại sao Nhà Xuất Bản Tôn giáo cho phép?
Theo suy đoán của chúng tôi, Thượng Tọa Giác Toàn tin tưởng rằng tác giả, Hòa Thượng Thích Mật Thể từng là Đại Biểu Quốc Hội Khóa I của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Chủ Tịch Ủy ban Phật Giáo Cứu Quốc tỉnh Thừa Thiên, từ năm 1947 tập kết ra Bắc và đã viên tịch ở Nghệ An vào năm 1961. Quyển Thế Giới Qua Phật Giáo được sáng tác trên đất Bắc dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, nếu Ngài không ca ngợi chế độ thì cũng không viết chi để xúc phạm đến chế độ, nếu có những gì không hay không phải thì Ban Tôn Giáo kiểm duyệt sẽ bỏ đi hoặc không cho in. Còn phần vụ kiểm duyệt của Ban Tôn Giáo cũng nghĩ như Thượng Tọa Giác Toàn là tác giả có một quá trình cống hiến cho Cách mạng, không ca ngợi thì thôi có đâu lại phê phán chế độ, và cũng tin nơi Thượng Tọa Giác Toàn chọn lựa sách có giá trị, đáng tin cậy. Cho nên quyển sách được cho phép in và phát hành bình thường, đến khi phát hành có người phát hiện, báo cho Ban Tôn Giáo biết về nội dung sách, lúc đó Ban Tôn Giáo nhanh chóng ra lệnh tịch thu.
Như vậy, câu hỏi được đặt ra là tại sao năm 2004 Ban Tôn Giáo lại cho phát hành sách này? Sự việc không có chi lạ, họ muốn dùng “Gậy ông đập lưng ông”. Với một tác giả có nhiều uy tín trong Phật giáo, xuất bản sách của tác giả này sẽ gây được ảnh hưởng rất sâu rộng và vững chắc. Do đó họ đã mạnh dạn sửa đổi nội dung từ một quyển sách phê phán trở thành một quyển sách ca tụng Chủ Nghĩa Xã Hội. Đấy là động cơ thúc đẩy họ cho tái bản lại quyển Thế Giới Quan Phật Giáo.
Trước khi vạch rõ nội dung thay đổi chính yếu, tưởng cũng nên trình bày qua nét thay đổi tổng thể như sau:
Sách do Vạn Hạnh Xuất Bản gồm có các tiết mục:
TỰA …………………………………………………Trang 3
TÌM ĐƯỜNG ………………………………………………7
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………..….11 TÌM HIỂU ……………………………………………….....17
- Tìm ở khoa học
- Tìm ở triết học
- Tìm ở tôn giáo
- Tìm ở chính trị
- Tìm ở Xã hội chủ nghĩa

PHẬT GIÁO ………………………………………………..31

1) Tôn giáo

a) Tin có thần b) Tín điều
2) Phật giáo
a) Sự thật
b) Phương pháp

a) Quan niệm về giáo chủ
a) Quan niệm về giáo chủ của các tôn giáo chủ trương
b) Quan niệm về giáo chủ của Phật giáo với chủ trương bình đẳng.

b) Quan niệm về sự vật
a) Quan niệm về sự vật của tôn giáo
b) Quan niệm về sự vật của Phật giáo

c) Quan niệm về luân lý
a) Quan niệm về luân lý của các tôn giáo
b) Quan niệm về luân lý của Phật giáo

d) Quan niệm giá trị về nhân sinh
a) Quan niệm của tôn giáo
b) Quan niệm của Phật giáo

- Bản thể thực tại
- Phương tiện thực hành

HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHẬT GIÁO ………………………….43
a) Hiện tượng chuyển biến và vô thường
b) Bản thể bất sinh bất diệt

PHẬT GIÁO VỚI VẤN ĐỀ NHÂN SINH ……………………….53
a) Nhân sinh do đâu mà có ?
b) Cuộc sống còn của nhân sinh
c) Sự chung kết của nhân sinh

PHẬT THÍCH CA LÀ HIỆN THÂN CỨU KHỔ CỦA NHÂN LOẠI …75
NHẬN THỨC LUẬN ……………………………………………..…….85
a) Bản chất của trí thức
b) Nguồn gốc giúp trí thức phát triển
c) Hiệu lực của trí thức

PHẬT THÂN LUẬN ……………………………………………………97
a) Pháp thân
b) Hóa thân
c) Báo thân

KẾT LUẬN ……………………………………………….……………105
Sách do Nhà xuất bản Tôn Giáo gồm có các tiết mục:
Lời mở đầu ……………………………………………...…… Trang 5 Vài nét về Thiền sư Thích Mật Thể ………………….……………... 9 Tìm đường …………………………….……………………………. 13 Tìm hiểu ……………………………………………………………..15
- Tìm ở khoa học ………………………………...…………….15
- Tìm ở triết học …………………………………...………….. 17
- Tìm ở tôn giáo ……………………………………………….. 18
- Tìm ở chính trị ……………………………………………….. 20

* Phật Giáo
I. Tôn giáo…………………………………………………………….25
a) Tin có thần .…………….………………………………….. 26 b) Tín điều ….…..……………………………………………. 26
II. Phật giáo ………………………………………………………….. 26
c) Sự thật ………………………………………….......……… 26
d) Phương pháp ……………………………………….………. 27

A. Quan niệm về giáo chủ
c. Quan niệm về giáo chủ của tôn giáo ……………………..…… 27
d. Quan niệm về giáo chủ của Phật giáo ……………………….... 27

B. Quan niệm về sự vật
c) Quan niệm về sự vật của tôn giáo ………………………...… 28
d) Quan niệm về sự vật của Phật giáo …………………………. 28

C. Quan niệm về luân lý
c) Quan niệm về luân lý của các tôn giáo …………..…………... 29
d) Quan niệm về luân lý của Phật giáo …………………………. 29

D. Quan niệm giá trị của nhân sinh
c) Quan niệm của tôn giáo ………………………………………. 29
d) Quan niệm của Phật giáo …………………………….……….. .30

III. Phật Giáo không phải là tôn giáo song cũng không phải là triết học .. 30
c) Bản thể thực tại ………………………………………………... 31
d) Phương tiện thực hành …………………………………………. 32

* Hai Nguyên Lý Của Phật Giáo
1. Hiện tượng chuyển biến và vô thường ……………….………….. 33
2. Bản thể bất sinh bất diệt ………………………………………… 34

* Phật Giáo Với Vấn Đề Nhân sinh ...……………………...……….... 35
A. Nhân sinh do đâu mà có ………………………………..……… 36
B. Cuộc sống còn của nhân sinh ……………………………...……. 37

1. Sự sống về vật chất …….…………………………….…. 38
2. Sự sống về tinh thần …………………………………..… 39

C. Sự chung kết của nhân sinh ………………………………….… 40
* Phật Thích Ca là hiện thân cứu khổ của nhân loại ...……….….… 66
* Nhận Thức Luận
A. Bản chất của trí thức …………………....………………… 73
B. Nguồn gốc giúp trí thức phát triển……..…………………… 74
C. Hiệu lực của trí thức ………………………………………. 79

* Phật Thân Luận
c. Pháp thân …………………………………………………… 84
d. Hóa thân ……………………………………………………. 85
e. Báo thân ……………………………………………………. 86

* Kết Luận ...…………………………….....……………………………… 90
Phụ lục :
Phê bình cuốn "Phật giáo triết học" của ông Phan Văn Hùm …………………. 95
Qua phần trình bày trên, chúng ta thấy Nhà Xuất Bản Tôn giáo đã thay đổi vài tiết mục như bỏ Lời tựa của Vạn Hạnh Xuất bản, đưa Lời mở đầu lên trên, đưa Tìm đường xuống, thêm tiểu sử tác giả, bỏ tiết mục Tìm ở Xã hội chủ nghĩa, đấy là phần chính đã làm thay đổi một phần nội dung của cuốn sách.
Quyển Thế Giới Quan Phật Giáo do Vạn Hạnh Xuất Bản từ trang 26 đến trang 29 nội dung như sau:
Các chính sách của các nhà ngoại giao, luôn luôn chuốt miệng cho khéo, thỉnh thoảng đọc những bài diễn văn lời lẽ rất văn hoa chải chuốt, tuyên bố những lời có vẻ trịnh trọng hòa bình, hoặc khi cùng bắt tay nhau, ký hiệp ước này, hiệp định khác, song cũng không hiểu vì sao? - Hay nó là tính tò mò của người ta - Họ vẫn lo ngại cho cuộc biến chuyển của tương lai, một cuộc chiến tranh khác, có lẽ khốc liệt hơn có thể xảy ra nếu loài người không thức tỉnh.
Có gì ngây ngô bằng tin các nhà chính trị có thể gặp nhau trong một lý tưởng, cùng một chủ nghĩa, căn cứ vào chính trị để tìm hạnh phúc mau chóng cho nhân loại, là một lý luận không thể đứng vững được.
Tìm ở chủ nghĩa xã hội. Ở khoa học, triết học cho đến tôn giáo, chính trị ta thấy đều không thể đem lại sự thỏa mãn lòng nhu cầu của nhân loại, tìm con đường sáng để đi đến chỗ hạnh phúc hoàn toàn chân chính thiện mỹ. Vậy nay hãy nhìn qua về xã hội chủ nghĩa là có một thuyết chủ trương về kinh tế, hiện đương có thế lực bành trướng khắp nơi, và hình như đã thu hút được nhiều người.
Xã hội chủ nghĩa là bước đầu tiên đến duy vật sử quan và duy vật biện chứng, để nhận xét lịch trình tiến hóa của nhân loại, và thuyết minh luật mâu thuẫn giữa vạn vật, giữa các giai cấp đấu tranh vô sản cầm chính quyền, tổ chức một nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội, tức là nền kinh tế quân phân, mỗi người đều hết bổn phận làm việc theo tài năng của mình, sự nhu cầu sẽ có xã hội cung cấp đầy đủ.
Bấy giờ ở xã hội không còn có chế độ của riêng nữa, sự mâu thuẩn ở giai cấp cũng tiêu sạch, nhân loại sẽ được hưởng hạnh phúc sung sướng không còn thống khổ và gây ra chiến tranh nữa.
Xét ra lý thuyết của chủ nghĩa này rất hay, nếu thực hiện được, thì nhân loại cũng hết khổ và hưởng được nhiều điều an vui thật. Song căn bản của chủ nghĩa xã hội đã sai lầm, nhận vật chất làm căn nguyên sinh ra vạn hữu, vũ trụ và lý tưởng loài người. Vì điều sai lầm căn bản ấy, xã hội chủ nghĩa trở nên nông cạn, chỉ thấy con người ở cơm ăn áo mặc. Đi sâu vào tâm lý loài người, xét tận nguồn gốc gây ra thống khổ của nhân loại, nguyên nhân chỉ vì Tham, Sân, Si chứa chất nhiều quá rồi được hoạt động qua một bản ngã (cái ta) sai lầm, thấp kém. (Mà chính cái đó gây ra mầm mống mâu thuẩn).
Nên xã hội chủ nghĩa tổ chức kinh tế khéo giỏi đến đâu, mà nếu không thể gọt bằng trí hiểu biết của con người, không thể thủ tiêu, hoặc không có phương pháp để thủ tiêu lòng tham, sân, si cùng bản ngã nhỏ hẹp kia, thì nhân loại cũng không bao giờ hết khổ được.
Vậy phải tranh đấu đến bao giờ mới kết quả, và sự mâu thuẩn giữa nhân loại đến bao giờ mới hết, ngay khi tranh đấu ấy lại gây ra mâu thuẩn, để rồi tự hủy thế đặng đi đến một quá trình biện chứng khác? Thiết tưởng đã không làm sao gọt bằng được trí thức, thủ tiêu được bản ngã nhỏ hẹp của con người thì sự mâu thuẩn giữa nhân loại không bao giờ hết. Mà rồi e rằng người ta chỉ có cãi cọ nhau, giằng co nhau, cắn xé nhau, đánh giết nhau, cuộc tổng cách mạng không thành, loài người không thể đi đến đích thế giới đại đồng, hạnh phúc sung sướng vui tươi của xã hội chủ nghĩa, muốn đem lại cho đời người thỏa mãn ngóng trông nó, mơ ước nó, như thế tưởng không khỏi như con ma kia cứ ruổi theo bóng nắng giữa bãi cát dài vô hạn! Để tìm một con đường sáng, tức là một giải quyết thõa đáng về vấn đề vũ trụ nhân sinh ở các thuyết, các tôn giáo, để có thể làm phương châm xây nền tảng hạnh phúc chung cho nhân loại. Sau khi đọc qua các thuyết như trên, con đường sáng vẫn còn đâu đâu, người đi đường còn phải cố gắng bước kiếm tìm.
Nay ta thử đi vào địa hạt Phật Giáo.
Phần này, sách Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, trình bày trang 23 và 24 với thay đổi như sau:
Các chính sách của các nhà ngoại giao, luôn luôn chuốt miệng cho khéo, thỉnh thoảng đọc những bài diễn văn lời lẽ rất văn hoa chải chuốt, tuyên bố những lời có vẻ trịnh trọng hòa bình, hoặc khi cùng bắt tay nhau, ký hiệp ước này, hiệp định khác, song cũng không hiểu vì sao? - Hay nó là tính tò mò của người ta - Họ vẫn lo ngại cho cuộc biến chuyển của tương lai, một cuộc chiến tranh khác, có lẽ khốc liệt hơn có thể xảy ra nếu loài người không thức tỉnh.
Xét ra các lý thuyết này rất hay, nếu thực hiện được, thì nhân loại cũng hết khổ và hưởng được nhiều điều an vui thật. Song nó cũng khó thực hiện. Đi sâu vào tâm lý loài người, xét tận nguồn gốc gây ra thống khổ của nhân loại, nguyên nhân chỉ vì Tham, Sân, Si chứa chất nhiều quá rồi được hoạt động qua một bản ngã (cái ta) sai lầm, thấp kém. (Mà chính cái đó gây ra mầm mống mâu thuẩn).
Để tìm một con đường sáng, tức là một giải quyết thỏa đáng về vấn đề vũ trụ nhân sinh ở các thuyết, các tôn giáo, để có thể làm phương châm xây nền tảng hạnh phúc chung cho nhân loại. Sau khi đọc qua các thuyết như trên, con đường sáng vẫn còn đâu đâu, người đi đường còn phải cố gắng bước kiếm tìm.
Nay ta thử đi vào địa hạt Phật Giáo.
Như vậy chúng ta thấy rõ họ đã cắt bỏ phần phê phán xã hội chủ nghĩa, và còn nữa, ở tiết mục Cuộc Sống Còn Của Nhân Sinh, trong Sự Sống Và Sự Chết có đoạn tác giả trình bày ở trang 69 như sau:
Để giải quyết sự chiến tranh mâu thuẫn giữa nhân loại, Karl Marx khéo lợi dụng những điều phát minh của các nhà khoa học, triết học, sáng lập ra chủ nghĩa xã hội, chủ trương giai cấp tranh đấu để tiêu diệt chủ nghĩa tư bản độc tài, kiến lập chủ nghĩa cộng sản. Khi nhân loại đã có một nền kinh tế quân bình, sự mâu thuẫn giữa giai cấp không còn nữa, và chiến tranh sẽ hết, nhân loại sẽ được hưởng hạnh phúc sung sướng, nhưng vì thiếu căn bản nhân tính, nên chế độ kinh tế này trở thành máy móc không tưởng, để rồi quay lại phản bội con người.
Sách Nhà Xuất Bản Tôn Giáo ở trang 60 đã sửa chữa lại như sau:
Để giải quyết sự chiến tranh mâu thuẫn giữa nhân loại, Karl Marx khéo áp dụng những điều phát minh của các nhà khoa học, triết học, sáng lập ra Chủ nghĩa xã hội, chủ trương tranh đấu giai cấp dành quyền lợi từ tay chủ nghĩa tư bản, kiến lập chủ nghĩa Cộng sản. Khi nhân loại đã có một nền kinh tế quân bình, sự mâu thuẫn giữa giai cấp không còn nữa, và chiến tranh sẽ hết, nhân loại sẽ được hưởng hạnh phúc sung sướng.
Họ đã cắt bỏ : nhưng vì thiếu căn bản nhân tính, nên chế độ kinh tế này trở thành máy móc không tưởng, để rồi quay lại phản bội con người.
Như vậy, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo đã cắt xén, sửa chữa, thay trắng đổi đen, họ đã ngụy tạo ra một quyển sách có phần lên án gắt gao chủ nghĩa xã hội, trở thành quyển sách ca tụng chủ nghĩa này, vì vậy nên chúng tôi định đặt tựa là "Một ngụy thư của Nhà xuất bản Tôn Giáo."
Còn một điểm nữa cũng cần nêu ra, trong tiết mục TÌM ĐƯỜNG tác giả viết ở phần cuối: Tôi cũng là kẻ lạc lối giữa rừng hoang khi còn lang thang vơ vẩn tìm đường may đâu trong tháp ngà nhặt được bản đồ của người thiên cổ.
Không biết tự bao giờ người đã đến đây và vạch thành bản đồ thế ấy …. mở ra xem thì ôi! CON ĐƯỜNG SÁNG Ở BÊN KIA (1).
Nhà xuất bản Tôn Giáo đã thêm vào chú thích này: (1) Chỉ cho sự đạt đạo, giác ngộ.
Thật ra có phải tác giả muốn nói thế không ? Hay là tác giả muốn để cho độc giả còn có thể nghĩ rằng: CON ĐƯỜNG SÁNG Ở BÊN KIA chớ không phải ở bên này, là nơi tác giả đang tu hành trong một ngôi chùa ở Nghệ An của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Sự thật vẫn là sự thật, cho nên chúng tôi đầu tiên định lấy tựa là "Cái gì của Cesar hãy trả lại cho Cesar ( 1 ) " Nhưng Nhà xuất bản Tôn Giáo đã chủ trương như vậy, họ cần cho người ta đọc và tin theo, cần gì họ phải sửa chữa, cho nên muốn "Cái gì của Cesar hãy trả lại cho Cesar" là chúng ta cần tái bản lại, nhất là những vị thuộc tông môn chùa Trúc Lâm ở Huế, nơi Hòa Thượng Thích Mật Thể đã thọ giới Sa di và nay đã cải táng Người ở nơi đây.
Làm được như vậy mới tránh được những ngộ nhận đáng tiếc, và không để cho tên tuổi của tác giả Việt Nam Phật Giáo Sử Lược bị vùi chôn do chủ trương của Ban Tôn Giáo Chính phủ Nhà nước Cộng Sản Việt Nam.
Chánh Hạnh
1-11-2005
( 1) Sê-sa là Jules César (100-44 trước Tây lịch), cũng thường được gọi là Đại đế César.
Còn thành ngữ trên, theo Thánh Kinh : MÁC 12:13 cũng như MA-THI-Ơ 22:15 Ghi chép: Đức Chúa Trời và Sê-sa như sau:
Bấy giờ người Pha-ri-si đi ra bàn luận với nhau, để kiếm cách bắt lỗi Đức Chúa Jêsus về lời nói. Họ sai môn đồ mình với đảng vua Hê-rốt đến thưa cùng Ngài rằng: Lạy thầy, chúng tôi biết thầy là thật, và theo cách thật mà dạy đạo của Đức Chúa Trời, không tư vị ai; vì thầy không xem bề ngoài của người ta. Vậy xin thầy nói cho chúng tôi, thầy nghĩ thế nào: có nên nộp thuế cho Sê-sa ( a ) hay không? Đức Chúa Jêsus biết ý xấu của họ, bèn đáp rằng: Hởi kẻ giả hình, sao các ngươi thử ta ? Hãy đưa cho ta xem đồng tiền nộp thuế. Họ đưa cho Ngài một đơ-ni-ê. Ngài bèn phán rằng: Hình và hiệu này của ai ? Họ trả lời rằng : Của Sê-sa. Ngài bèn phán rằng: Vậy, hãy trả cho Sê-sa vật gì của Sê-sa; và trả cho Đức Chúa Trời vật gì của Đức Chúa Trời. Họ nghe lời ấy, đều bợ ngợ, liền bỏ ngài mà đi.
( a ) Người Rô-ma gọi vua là Sê-sa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét